Để duy trì hoạt động kinh doanh và vượt qua thách thức do ảnh hưởng của đại dịch Covid – 19, đòi hỏi một số doanh nghiệp phải lựa chọn các giải pháp cấp thiết để cắt giảm chi phí hoạt động từ chi phí thuê văn phòng và mặt bằng bán hàng, chi phí quảng cáo, tiếp thị … và thậm chí là cả chi phí tiền lương trả cho người lao động. Có nhiều giải pháp mà doanh nghiệp có thể lựa chọn nhưng nhiều khi bắt buộc phải đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động.

1. Doanh nghiệp có được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động do dịch Covi – 19 hay không? 

Ngày 01/4/2020, Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định 447/QĐ-TTg về công bố dịch bệnh truyền nhiễm Covid-19 là dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona gây ra.

Theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012  thì doanh nghiệp có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động vì lý do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.

Theo quy định tại Điều 12 Nghị định 05/2015/ND – CP lý do bất khả kháng khác là thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Do địch họa, dịch bệnh;
  • Di dời hoặc thu hẹp địa điểm sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy, doanh nghiệp có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nếu đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.

Tuy nhiên, để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, doanh nghiệp phải chứng minh được việc đã thực hiện mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc, cắt giảm nhân sự,…Đồng thời, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, doanh nghiệp còn phải đáp ứng yêu cầu về thời hạn báo trước cho người lao động như sau:

  • Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
  • Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;
  • Ít nhất 03 ngày làm việc đối với người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục;
  • Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.

2. Người lao động bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động do Covid -19 được hưởng trợ cấp thôi việc hay trợ cấp mất việc làm?

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động 2012, khi hợp đồng lao động chấm dứt do “Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật này; người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã.” thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương. 

Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 49 của Bộ luật Lao động 2012: “Người sử dụng lao động trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên mà bị mất việc làm theo quy định tại Điều 44 và Điều 45 của Bộ luật này, mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương.” 

Như vậy, doanh nghiệp chỉ chi trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động nếu đáp ứng đủ điều kiện đã làm việc thường xuyên cho doanh nghiệp từ 12 tháng trở lên và bị nghỉ việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã theo Điều 44, 45 Bộ luật Lao động năm 2012.

Trong trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động vì lý do kinh tế, ngoài nghĩa vụ thanh toán đầy đủ các khoản lợi ích hợp pháp theo hợp đồng lao động, doanh nghiệp còn có nghĩa vụ trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động.

Lúc này, doanh nghiệp không phải đáp ứng yêu cầu về thời hạn báo trước, nhưng phải tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động để lập Phương án sử dụng lao động. Sau đó, đưa ra văn bản Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động đối với từng người lao động.

Trong trường hợp doanh nghiệp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động vì lý do dịch bệnh theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật Lao động năm 2012 thì người lao động sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc khi làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên tại doanh nghiệp, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

Cách tính mức hưởng Trợ cấp thôi việc:

Mức hưởng trợ cấp= 1/2 x Tiền lương tính trả Trợ cấp x Thời gian tính hưởng trợ cấp thôi việc.

Như vậy, khi bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động do dịch Covid – 19, người lao động không được hưởng trợ cấp mất việc làm nhưng được hưởng trợ cấp thôi việc nếu đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên tại doanh nghiệp. 

Trên đây là nội dung tư vấn mà Lawkey gửi tới bạn đọc. Mọi thắc mắc vui lòng liên hệ với Lawkey để được hỗ trợ tư vấn miễn phí.