Theo quy định của pháp luật lao động, người sử dụng lao động sẽ trả tiền lương cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận căn cứ vào năng suất lao động và chất lượng công việc mà người lao động sẽ đảm nhận. Vậy pháp luật quy định cụ thể như thế nào về tiền lương của người lao động?

1. Các yếu tố cấu thành tiền lương 

Tiền lương mà người sử dụng lao động trả cho người lao động sẽ gồm ba khoản riêng biệt là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác, cụ thể như sau:

1.1. Mức lương theo công việc hoặc chức danh

Theo quy định của pháp luật, mức lương theo công việc hoặc chức danh là mức lương tính theo thời gian của công việc hoặc chức danh theo thang lương, bảng lương mà người sử dụng lao động đã xây dựng. Mức lương này không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng theo quy định của pháp luật tại từng thời điểm.

1.2. Phụ cấp lương

Ngoài mức lương, người sử dụng lao động và người lao động có thể thỏa thuận về việc trả thêm phụ cấp lương chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ trong mức lương theo công việc hoặc chức danh. Có hai loại phụ cấp lương được quy định hiện nay gồm:

Các khoản phụ cấp lương gắn với quá trình làm việc và kết quả thực hiện công việc của người lao động và các khoản phụ cấp lương để bù đắp cho các yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động mà mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ như: Phụ cấp chức vụ, chức danh, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thâm niên, phụ cấp khu vực, phụ cấp lưu động, phụ cấp thu hút và các phụ cấp có tính chất tương tự.

1.3. Các khoản bổ sung khác

Pháp luật hiện hành cũng phân chia các khoản bổ sung khác thành hai loại là: Các khoản được xác định bằng mức tiền cụ thể cùng với mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động, trả thường xuyên trong mỗi kỳ trả lương và các khoản không xác định được bằng mức tiền cụ thể cùng với mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động, được trả thường xuyên hoặc không thường xuyên trong mỗi kỳ trả lương gắn với quá trình làm việc, kết quả thực hiện công việc của người lao động. 

Lưu ý rằng, đối với tiền thưởng theo quy định tại Điều 103 Bộ luật lao động năm 2012, tiền thưởng sáng kiến, tiền ăn giữa ca, các khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại, tiền nhà ở, tiền giữ trẻ, nuôi con nhỏ, hỗ trợ khi người lao động có thân nhân bị chết, người lao động có người thân kết hôn, sinh nhật của người lao động, trợ cấp cho người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác, các bên sẽ phải thỏa thuận và ghi nhận thành một mục riêng trong hợp đồng lao động, mà không đưa vào mức lương, phụ cấp lương hay là các khoản bổ sung khác.

2. Hình thức trả lương, kỳ hạn trả lương

Theo quy định, tiền lương ghi trong hợp đồng lao động và tiền lương trả cho người lao động phải bằng Đồng Việt Nam, trừ trường hợp trả lương, phụ cấp lương cho người không cư trú và người cư trú là người nước ngoài theo quy định của pháp luật về ngoại hối.

Người sử dụng lao động có thể thỏa thuận với người lao động để trả lương bằng tiền mặt hoặc trả qua tài khoản cá nhân của người lao động được mở tại ngân hàng. Căn cứ vào tính chất công việc và điều kiện sản xuất, kinh doanh của từng doanh nghiệp, người sử dụng lao động có quyền lựa chọn một trong ba hình thức là trả lương theo thời gian (tháng/tuần/ngày/giờ), hoặc trả lương theo sản phẩm hoặc trả lương khoán. Trong đó, kỳ hạn trả lương được thực hiện theo nguyên tắc sau: 

  • Người lao động hưởng lương giờ, ngày, tuần thì được trả lương sau giờ, ngày, tuần làm việc hoặc được trả gộp theo thỏa thuận, nhưng ít nhất 15 ngày phải được trả gộp một lần;
  • Người lao động hưởng lương tháng được trả lương một tháng một lần hoặc nửa tháng một lần và được trả vào thời điểm trả lương. Các bên phải thỏa thuận về thời điểm trả lương và ấn định vào một thời điểm cố định trong tháng; 
  •  Người lao động hưởng lương theo sản phẩm, lương khoán được trả lương theo thỏa thuận của hai bên; nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hằng tháng được tạm ứng tiền lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng.

Trường hợp đặc biệt do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục, nhưng không thể trả lương đúng thời hạn theo thỏa thuận thì được trả chậm tối đa mười lăm ngày và khi đó sẽ không phải trả thêm tiền lãi. Tuy nhiên, nếu người sử dụng lao động trả lương chậm từ mười lăm ngày trở lên thì trả thêm một khoản tiền cho người lao động ít nhất bằng số tiền trả chậm nhân với lãi suất trần huy động tiền gửi có kỳ hạn một tháng do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm trả lương. Khi Ngân hàng Nhà nước không quy định trần lãi suất thì số tiền trả thêm được tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn một tháng của ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp mở tài khoản giao dịch thông báo tại thời điểm trả lương.

Trên đây là nội dung bài viết về vấn đề “Tiền lương của người lao động theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012” mà Lawkey gửi tới bạn đọc. Mọi thắc mắc vui lòng liên hệ với Lawkey để được hỗ trợ tư vấn miễn phí. 

2 thoughts on “Tiền lương của người lao động theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012

  1. Pingback: Người lao động là người nước ngoài có phải đóng thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam không? - Trang pháp luật kinh tế - Luật LawKey

  2. Pingback: Những lưu ý khi người lao động làm việc cho nhiều công ty con cùng thuộc một tập đoàn - Trang pháp luật kinh tế - Luật LawKey

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *